Hiến pháp Cộng_hòa_Áo_-_Đức

Các cuộc bầu cử vào Quốc hội lập hiến được tổ chức vào ngày 16 tháng 2 năm 1919 và lần đầu tiên phụ nữ được phép bỏ phiếu.[3] Trong số 38 khu vực có người Đức sinh sống chỉ có 25 khu vực tham gia với 159 đại biểu được bầu vào 170 ghế với Đảng Dân chủ Xã hội là Đảng lớn nhất. Đảng Dân chủ Xã hội đã giành được 72 ghế, Đảng Xã hội Thiên chúa giáo 69 và Những người theo chủ nghĩa Dân tộc Đức 26. Quốc hội Lập hiến lần đầu tiên họp vào ngày 4 tháng 3 năm 1919 và ngày 15 tháng 3, một chính phủ mới được thành lập và một lần nữa do Karl Renner lãnh đạo. Đảng Dân chủ Xã hội Áo mặc dù là một trong những đảng theo chủ nghĩa mácxít hàng đầu với chủ nghĩa mácxít Áo hiện tại đã không cố gắng giành chính quyền hoặc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, phần lớn các chính trị gia bảo thủ, Công giáo vẫn còn nghi ngờ họ và điều này dẫn tới sự chia rẽ cánh tả - cánh hữu nghiêm trọng, khiến nền Đệ nhất Cộng hòa suy sụp và dẫn đến sự sụp đổ vào năm 1934.

Lãnh đạo Đảng Dân chủ Xã hội Otto Bauer đã viết: "Áo - Đức không phải là một tổ chức tuân theo quy luật phát triển lịch sử, chỉ là phần còn sót lại của đế chế cũ sau khi các quốc gia khác đã tách khỏi nó. Nó vẫn là một nắm cát rời của các Vùng đất rải rác."[4]

Nguyện vọng thống nhất với Đức bị cấm

Vào ngày 13 tháng 11 năm 1918, Áo-Đức yêu cầu Đức khởi động đàm phán để thống nhất và ngày 15 tháng 11 đã gửi một điện tín cho Tổng thống Wilson để đề nghị hỗ trợ cho sự thống nhất của Đức và Áo. Điều này được dựa trên quan điểm cho rằng Áo chưa bao giờ là một quốc gia thực sự. Trong khi nhà nước Áo đã tồn tại dưới hình thức này hoặc khác trong hơn 700 năm (có từ thời Đế quốc La Mã Thần thánh) thì lực lượng thống nhất duy nhất của nó là nhà Habsburg. Ngoài việc có người Đức sinh sống, những vùng đất này không có bản sắc "Áo" chung. Họ là những người nói tiếng Đức ở những vùng đất dưới sự cai trị của nhà Habsburg không gia nhập Đế quốc Đức do nước Phổ sáng lập sau khi đế chế Áo thua trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ.

Ngày 12 tháng 3 năm 1919, Hội đồng Lập hiến xác nhận lại một tuyên bố trước đó rằng Áo-Đức là một phần cấu thành của nước cộng hòa Đức. Những người theo chủ nghĩa Liên Đức và Đảng Dân chủ Xã hội ủng hộ liên minh với Đức trong khi những Người theo chủ nghĩa Xã hội Cơ đốc giáo ít ủng hộ hơn.

Trong suốt mùa xuân và mùa hè năm 1919, các cuộc đối thoại thống nhất giữa các đại diện Đức và Áo vẫn tiếp tục. Tất cả những điều này đã thay đổi sau ngày 2 tháng 6 năm 1919 khi dự thảo hiệp ước hòa bình với Áo được trình bày, các đồng minh phương Tây đã phản đối bất kỳ liên minh nào giữa Đức và Áo.

Tem Đức ÁoBản đồ các ngôn ngữ trong Đế quốc Áo - Hung năm 1911

Hiệp ước Saint Germain

Sau khi đệ trình một bản phản đối chính thức việc phe Liên Minh thắng trận ngăn cản thống nhất Đức-Áo, ngày 10 tháng 9 năm 1919, Renner đã ký kết Hiệp ước Saint Germain và nó đã được Quốc hội lập hiến thông qua vào ngày 17 tháng 10. Theo quy định, vào ngày 21 tháng 10, quốc gia đổi tên từ "Áo-Đức" thành "Cộng hòa Áo". Áo cũng mất các lãnh thổ như SudetenlandBohemia thuộc Đức vào tay Tiệp Khắc; Nam TyrolIstria (bao gồm cả cảng Adriatic ở Trieste) vào tay Vương quốc Ý; Kranjska, Hạ Steiermark, Dalmatia vào tay Vương quốc của người Serb, Croatia và Slovene.

Tem 20

Điều 88 của hiệp định, đôi khi được gọi là "nỗ lực tiền Anschluss", đã nói rằng:

Nền độc lập của Áo là bất khả xâm phạm nếu không có sự đồng ý của Hội Quốc Liên. Do đó Áo bảo đảm trong trường hợp không có sự cho phép của Hội Quốc Liên thì sẽ kiềm chế bất kỳ hành động nào có thể trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc bằng bất cứ phương diện nào làm tổn hại đến tính độc lập của mình và nhất là trước khi Áo được gia nhập Hội Quốc Liên và can dự vào các vấn đề của một Cường quốc khác.

Điều khoản này đã ngăn chặn mọi nỗ lực của Áo nhằm thống nhất với Đức.[5]

Một đồng tiền Krone, mang tên Đức Áo

Như vậy, Hiệp ước Versailles đã đưa ra các điều khoản hòa bình cho Đức, đã cấm mọi liên minh giữa Áo và Đức. Với những thay đổi này và việc giải quyết biên giới Áo, kỷ nguyên của Đệ nhất Cộng hòa Áo đã bắt đầu.[6]